ĐẠO CỦA TÔI
hay dang ky quan cao noi day
ĐẠO CỦA TÔI
hay dang ky quan cao noi day
ĐẠO CỦA TÔI
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

ĐẠO CỦA TÔI

NAY CON NIỆM DANH HIỆU NGÀI
 
Trang ChínhPortalGalleryTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
CHÀO CÁC BẠN NAY TÔI QUYẾT ĐỊNH NGHE VÀ TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Top posters
KHONG_NHO
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTÔNG PHÁI PHẬT GIÁO 88460TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty 
Ngo_luan
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTÔNG PHÁI PHẬT GIÁO 88460TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty 
Giacmobuon
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTÔNG PHÁI PHẬT GIÁO 88460TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty 
ngo_phuoc
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTÔNG PHÁI PHẬT GIÁO 88460TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty 
Ngo_thinh
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTÔNG PHÁI PHẬT GIÁO 88460TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty 
a_di_da_phat
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTÔNG PHÁI PHẬT GIÁO 88460TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty 
manhsaigon
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTÔNG PHÁI PHẬT GIÁO 88460TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty 
Ngo_duc
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTÔNG PHÁI PHẬT GIÁO 88460TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty 
hoangluc39
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTÔNG PHÁI PHẬT GIÁO 88460TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty 
nhokboo
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTÔNG PHÁI PHẬT GIÁO 88460TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty 
HỖ TRỢ MIỀN PHÍ
01699668300 gặp ngộ luận gặp Ngộ thịnh 01666004413
ĐỒNG HỒ
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» KINH DƯỢC SƯ
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptySat Dec 08, 2012 6:28 pm by Ngo_luan

» HÀNH TRÌ GIỚI LUẬT
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyWed Dec 05, 2012 9:09 am by KHONG_NHO

» BỔN MÔN PHÁP HOA KINH
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyMon Nov 26, 2012 3:14 pm by KHONG_NHO

» KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyMon Nov 26, 2012 3:12 pm by KHONG_NHO

» KINH A DI ĐÀ
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyMon Nov 26, 2012 3:11 pm by KHONG_NHO

» ý nghĩa lá cờ
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyMon Sep 03, 2012 7:22 pm by Ngo_luan

» ĐẠI LỂ VU LAN
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyThu Aug 23, 2012 3:33 pm by Ngo_luan

» Những điều nên biết về lá cờ Phật giáo[
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyThu Jul 05, 2012 11:20 pm by Giacmobuon

» Ý NGHĨA CỦA VIỆC TỤNG KINH
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTue Jul 03, 2012 10:49 pm by HoaMinh

» TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTue Jul 03, 2012 10:29 pm by HoaMinh

» Sự phục vụ của Đức Phật
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptySun Jul 01, 2012 8:00 pm by a_di_da_phat

» Mùa Hoa Vô Ưu
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptySun Jul 01, 2012 7:51 pm by a_di_da_phat

» Tịnh tâm-Thích Thiện Thuận
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptySat Jun 30, 2012 11:52 am by Ngo_thinh

» HÓA GIẢI NGHIỆP ĐỜI TRƯỚC
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyThu Jun 28, 2012 8:28 pm by a_di_da_phat

» LUẬN VỀ BỒ ĐỀ TÂM
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyThu Jun 28, 2012 8:14 pm by a_di_da_phat

Most Viewed Topics
KINH TRƯỜNG THỌ DIỆT TỘI
" KHAI THỊ CHÚNG SANH NGỘ NHẬP PHẬT TRI KIẾN"
Ý Nghĩa Chuỗi Hạt Trong Đạo Phật
Ý NGHĨA : "NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT"
KINH VĂN PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI
Chúng sinh là gì? Thần tiên có phải chúng sinh ko? Cây cỏ có luân hồi, tái sinh ko?
BẾN YÊU THƯƠNG
KINH CẦU SIÊU
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni !
KINH VU LAN BÁO HIẾU
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu
THỜI TIẾT 24/24
Hà Nội Du bao thoi tiet - Thu do Ha Noi Huế Du bao thoi tiet - Co do Hue Thành Phố Hồ Chí Minh Du bao thoi tiet - Thanh pho Ho Chi Minh
TÂN HỒNG
FREE photo hosting by Up Anh

 

 TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO

Go down 
Tác giảThông điệp
HoaMinh
CẤP BẬC 1
CẤP BẬC 1
HoaMinh


cảm ơn { thanks } : 1
ngày tham gia : 09/06/2012
tuổi của bạn : 54
Đến từ : 73/28 - Lê Văn Viêt - Hiệp Phú - Q. 9 - TP.HCM

TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty
Bài gửiTiêu đề: TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO   TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTue Jul 03, 2012 10:09 pm



TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO



Đạo Phật là Đạo giải thoát. Đức Phật đã dạy: Có 8 vạn bốn ngàn pháp môn tu để đạt giải thoát. Mỗi tông phái chọn một phương pháp tu tập nhưng không bao giờ vượt ra ngoài giáo pháp của Phật cả. Có Phật tử cùng một lúc thực hành theo nhiều tông phái khác nhau như "Thiền Tịnh song tu", "Vừa niệm Phật vừa trì chú"... Trong bài viết này, chúng tôi chỉ xin giới thiệu sơ lược 10 tông phái Trung Hoa do Thầy Thích Thiện Hoa giảng trong bộ "Phật học phổ thông". 10 tông phái đó là:

1) Thiền Tông


2) Mật tông

3) Tịnh độ tông


HIện nay ba tông phái này là lớn nhất và thông dụng nhất nên chúng tôi giới thiệu riêng (xem ở Menu của trang web). Còn lại 7 tông phái khác gồm:

4) Luật tông: Tông này dùng luật làm chỗ căn cứ nên gọi là Luật tông. Ðức Phật khi còn tại thế, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà chế ra nhiều loại giới luật để răn dạy đệ tử, hóa độ chúng sinh. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, các đệ tử của Ngài, như Ngài Ưu Ba Li là vị tinh thông về giới luật đứng trên pháp tọa trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, đã tụng đọc lại những giới luật mà Ðức Phật đã chế ra. Lần kết tập này chưa biên chép thành kinh điển, nên Ngài Ưu Ba Li phải đọc đi đọc lại đến 80 lần, đến nỗi mỗi người trong hội đều thuộc lòng. Do đó, mới có tên là "Bát thập tụng luận ". Về sau, tuần tự theo thời gian, nguyên thủy Phật giáo lần hồi chia ra làm nhiều nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ phái đều theo một bộ lụât riêng.

5) Duy thức tông hay Pháp tướng tông: Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì chấp có thật ngã, thật-pháp mà tạo ra các nghiệp, rồi bị các nghiệp dẫn dắt nên xoay vần mãi theo bánh xe sanh tử luân hồi. Nếu con người hiểu rõ một cách chắc chắn rằng: tất cả các pháp trong vũ trụ, nhân và ngã đều không thật có, chỉ do thức biến hiện, như cảnh trong chiêm bao, và không còn gây phiền não, tạo nghiệp chướng nữa, thì tất không còn bị ràng buộc trong bánh xe sanh tử luân hồi.
Ðể phá trừ hai món chấp thật ngã và thật pháp, Ðức Phật dạy rất nhiều phương pháp pháp thiền, mà Duy-Thức Tông hay Pháp tướng tông là một pháp tu rất cần thiết, rất hiệu-nghiệm để đi đến giải-thoát.
Tông phái này thuộc về Ðại thừa, phân tách vũ trụ, vạn hữu đều do thức biến hiện. Duy thức tông, hay Pháp tướng tông, như danh từ đã chỉ định, không nói về tâm tánh chơn như, mà chỉ nói về tướng của thức, tức cũng là tướng của pháp. Biết rằng từ chơn vọng hòa hiệp biến thành hình tướng thức A Lại Da, rồi từ thức A Lại Da sanh ra các tướng tâm-pháp .v.v...tôn này quán sát hành tướng của các pháp ấy, nên gọi là '' Pháp tướng tông '' . Ðứng về phương diện nguyên nhân mà nghiên cứu, tôn này chủ trương rằng vũ trụ vạn hữu, hay là tát cả các pháp đều do duy thức biến hiện, ngoài thức không còn một yếu tố nào khác nữa nên gọi là ''Duy thức tông '' .

6) Hoa nghiêm tông hay Hiền thủ tông: Tông này thuộc về Ðại-thừa, căn cứ theo giáo nghĩa trong kimh Hoa nghiêm là một bộ kinh cao nhất mà Ðức Phật đã nói ra, nên gọi là Hoa nghiêm tông.
Người sáng lập ra tông này là Ngài Ðỗ Thuận một vị Hòa thượng đời Ðường. Ngài đã thâu góp ý nghĩa mầu nhiệm của kinh Hoa nghiêm, làm ra ba bộ "Pháp giới quán".
Người kế vị Ngài Ðỗ Thuận là Ngài Trí nghiễm, ở chùa Trí tướng. Ngài Trí nghiễm đã làm ra nhiều bộ luận có giá trị để giải bày nghĩa lý của tông này như các bộ: ''Sưu huyền ký'', ''thập huyền môn'', ''Ngũ thập yếu vấn đáp''.
Vị thừa kế Ngài Trí nghiễm và đã có nhiều công nghiệp lớn đối với Tông này là Ngài Pháp tạng, cũng gọi là Hiền Thủ quốc sư. Ngài đã làm ra bộ ''Thám huyền ký'' và nhiều chương số khác, khiến cho Hoa nghiêm tông rất được thạnh hành và phát triển trong đời Ngài. Do đó, Tôn này cũng thường gọi là Hiền thủ tôn. Sau khi Ngài Hiền thủ qua đời được ít lâu, kinh Hoa nghiêm được dịch lại bằng tiếng Hán văn bộ mới, Ngài Trừng quán, tức là Thanh lương quốc sư, dựa theo ý nghĩa bộ Hoa nghiêm mới dịch này mà làm ra bộ ''Hoa nghiêm sớ sao'', bày giải nghĩa lý rộng rãi, sâu xa mầu nhiệm của kinh Hoa nghiêm. Vì thế, Hoa nghiêm tông lại càng được người đời sùng mộ, nhất là trong giới thượng lưu trí thức nước Tàu.

7) Tam luận tông hay Tánh không tông: Tông này căn cứ vào ba bộ luận sau đây mà thành lập, nên gọi là Tam Luận tông.
1.- Bộ Trung luận, gồm có bốn quyển, do Ngài Bồ tát Long Thọ làm ra, mục đích chính phá chấp của Tiểu Thừa và kèm một phần phụ đả phá sai lầm của ngoại đạo.
2.- Bộ Bách luận, gồm có hai quyển do Ngài Bồ tát Ðề Bà làm ra, mục đích chính là phá chấp của ngoại đạo và kèm một phần phụ phá chấp của Tiểu Thừa.
3.- Bộ Thập Nhị Môn luận, gồm có một quyển, cũng do ngài Long Thọ làm ra, mục đích phá cả Tiểu Thừa và ngoại đạo.
Tóm lại, ba bộ luận trên đây, đều phá sự thiên chấp sai lầm của Tiểu Thừa và ngoại đạo và mục đích cuối cùng là làm sáng tỏ nghĩa lý sâu xa, mầu nhiệm của Ðại Thừa.
Tông này được thịnh hành ở Trung Hoa trong đời Dao Tần do công đức hoằng dương của ngài Cưu Ma La Thập, và trong đời Ðường do công đức của ngài Ðại sư Gia Tường.

Cool Câu Xá Tông hay Là Hữu Tông: Tông này thuộc về Tiểu thừa, phát xuất từ bộ luận Câu xá của Ngài Thế-Thân. Bộ luận Câu xá lại dựa theo ý nghĩa của bộ kinh Ðại Tỳ Bà Sang (Mahavibhasacastra) mà thành lập. Bộ luận Câu xá được Ngài Trần Chân Ðế dịch và truyền sang Tàu rất sớm, nhưng về sau bị thất truyền. Trong giai đoạn đầu nầy, Câu xá tông chưa thành một tông phái riêng biệt ở Trung Hoa. Chỉ đến khi Ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh ở Ấn Ðộ trở về, đem dịch lại bộ luận Câu Xá và đệ tử của Ngài là Ðại sư Phổ Quang dựa theo bộ luận nói trên mà ra bộ "Câu xá thuật ký", và Ngài Pháp bảo làm bộ "câu xá luận sớ" thì Câu xá tông mới thành một tông phái và được thịnh hành ở Trung Hoa. Nhưng hết đời Ðường (từ đầu thế kỷ thứ VII đến cuối thế kỷ thứ IX) thì tông này lại dần dần suy tàn và nhường địa vị quan trọng cho phái Ðại thừa khác, thích hợp với triết học và tâm lý của nhưng Trung Hoa hơn.

9) Thành thật tông: Tông này thuộc về Tiểu Thừa, y cứ vào ý nghĩa của bộ Thành thật luận, do đó gọi là Thành thật tông. Bộ Thành thật luận do ngài Ha-lê-bạt-ma ( Harivarman), Tàu dịch là Cưu-ma-la-đà (Kumaraladha) thuộc phái Tiểu Thừa Tát-bà-đa làm ra, vào khoảng 900 năm, sau khi đức Phật Thích Ca nhập niết bàn. Như chúng ta đã biết qua trong phần lịch sử truyền giáo ở Ấn độ, sau khi đức Phật nhập niết bàn, phái Tiểu Thừa chia ra thàngh nhiều nhóm, giải thích kinh điển của Phật không giống nhau. Nhận thấy nguy cơ có thể làm cho Phật giáo suy đồi vì sự không đồng quan điểm`về giáo lý của các tông phái ấy, ngài Ha-lê-bạt-ma đã đem hết tâm lực và trí tuệ uyên bác của mình, rút ra tinh tủy trong các bộ kinh luậncủa Tiểu Thừa, làm ra bộ Thành thật luận. Sở dĩ ngài dùng hai chữ "Thành thật" để đặt tên cho bộ luậncủa mình là hàm ý muốn nói rằng: những lý nghĩa trong bộ luận của mình là chân thật, đúng đắn hoàn toàn với giáo lý căn bản trong ba tạng kinh điển của Phật. Mà thật như thế, bộ Thành thật luận là bộ luận có thể tiêu biểu một cách trung thực giáo lý của Tiểu Thừa.
Và cũng vì giá trị chân chính ấy mà bộ Thành thật luận được truyền sang Trung Hoa, được Ngài Cưu-ma-la-thập trong đời giao Tần dịch ra văn Tàu, gồm có tất cả 16 cuốn, chia ra làm 202 phẩm. Mặc dù được người đời hâm mộ, bộ luận này phải đợi đến đời Nam Bắc triều mới thành lập một tông riêng tức là" Thành thật tông".


10) Thiên thai tông: Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh Diệu pháp liên hoa. Thiên Thai tông xem Ngài Long Thụ là Sơ tổ vì ba quan điểm chính (Thiên Thai tam quán) của tông phái này dựa trên giáo lí của Long Thụ. Đó là: Tất cả mọi hiện tượng dựa lên nhau mà có, và thực chất của chúng là tính Không. Mọi hiện tượng là biểu hiện của một thể tuyệt đối, đó là Chân như. Tông phái này gọi ba chân lí đó là không, giả và trung:

1. Chân lí thứ nhất cho rằng mọi pháp không có một thật thể và vì vậy trống rỗng;
2. Chân lí thứ hai cho rằng, tuy thế, các pháp vẫn có một dạng tồn tại tạm thời với thời gian và giác quan con người có thể nắm bắt được;
3. Chân lí thứ ba tổng hợp hai chân lí đầu, cho rằng thể của sự vật lại không nằm ngoài tướng, không thể bỏ hiện tượng để tìm bản chất, thể và tướng là một.

Quan điểm này nhấn mạnh tính toàn thể và xuyên suốt của sự vật. Cái toàn thể và cái riêng lẻ là một. Toàn bộ các pháp có khác nhau nhưng chúng đan lồng vào nhau, cái này chứa đựng cái kia. Không, giả và trung chỉ là một và từ một mà ra.

Chính vì vậy các tổ của tông phái này hay nói “toàn thể vũ trụ nằm trên đầu một hạt cải” hay “một ý niệm là ba ngàn thế giới.” Tổ thứ hai của tông này là Huệ Văn, Tổ thứ ba là Huệ Tư và Tổ thứ tư là Trí Di. Dưới sự lĩnh đạo của Đại sư Trí Di, giáo lí của tông Thiên Thai đã đạt đến tuyệt đỉnh. Phép tu của Thiên Thai tông dựa trên phép thiền Chỉ quán, và chứa đựng các yếu tố mật tông như Chân ngôn (thần chú, sa. mantra) và Mạn-đà-la (sa. mandala). Tông này sau được Truyền Giáo Đại sư Tối Trừng (767-822), đệ tử của Tổ thứ 10 Thiên thai tông, truyền qua Nhật trong thế kỉ thứ 9.
Về Đầu Trang Go down
HoaMinh
CẤP BẬC 1
CẤP BẬC 1
HoaMinh


cảm ơn { thanks } : 1
ngày tham gia : 09/06/2012
tuổi của bạn : 54
Đến từ : 73/28 - Lê Văn Viêt - Hiệp Phú - Q. 9 - TP.HCM

TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty
Bài gửiTiêu đề: THIỀN TÔNG   TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTue Jul 03, 2012 10:19 pm



THIỀN TÔNG

[You must be registered and logged in to see this image.]

Đức Phật Thích ca Mâu Ni là bậc thầy của thiền định. Ngài đã học thiền và tu khổ hạnh 6 năm ở một khu rừng thuộc thị trấn Ưu Lâu Tần Loa, bây giờ khu rừng đó được đặt tên là "Khổ hạnh lấm" thuộc tiểu bang Bihar, Ấn Độ. Sau đó Ngài tọa thiền dưới gốc cây Bồ đề 49 ngày và thành đạo. Câu chuyện dưới đây được xem là khởi đầu của Thiền tông. Đó là câu chuyện Đức Phật truyền tâm ấn cho ngài Ma Ha Ca Diếp trên núi Linh Sơn:

"Trong cuộc hội ở núi Linh Sơn, Đức Thế Tôn giơ cành hoa ra hiệu cho đại chúng. Mọi người đều im lặng không hiểu ý gì, chỉ có một mình ông Ma Ha Ca Diếp rạng rỡ mỉm cười. Đức Thế Tôn nói:

- Ta có Chánh pháp Nhãn tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Thực tướng Vô tướng, Vi diệu Pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trao phó cho Ma Ha Ca Diếp.

Xưa nay Thiền Tông đều coi câu nói ấy của Đức Thế Tôn là quan trọng nhứt của Tông môn. Tông nầy lấy Tâm truyền Tâm làm chỗ dựa để khai ngộ."

Sau khi Đức Phật nhập diệt, ngài Ma Ha Ca Diếp tiếp tục truyền tâm ấn cho các đệ tử. Dòng thiền tông tiếp tục phát triển, đầu tiên từ Ấn Độ rồi lan sang Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam...

Khoảng năm 520, Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) vị Tổ Thiền tông đời thứ 28 của Ấn Độ vì thấy sự suy vi của Phật giáo tại bản xứ nên theo đường biển đến Quảng châu lúc Ngài đã 50 tuổi để hoằng hóa sang Trung quốc và sau bao thăng trầm buổi đầu đã thiết lập được một truyền thống Thiền Trung Hoa tuyệt diệu nhờ nẩy nở trên một mãnh đất đã sẵn mầu đạo vị, và trở thành vị Sơ Tổ Thiền Trung Hoa. Ngài thường thuyết bộ kinh Nhập Lăng Già (Lankavata-sutra) và truyền phép thiền định. Ngài đã đặt ra hầu hết những giềng mối cơ bản cho Thiền tông Trung Hoa.

Bồ Đề Đạt Ma với tướng mạo dữ dằn, mắt lộ, râu ria rậm rạp đến nỗi các hành giả còn gọi ngài là "Bích nhãn Hồ" nghĩa là tên rợ mắt xanh, mở ra được dòng Thiền từ Chùa Thiêu Lâm, trên rặng núi Tung sơn. Tương truyền nơi đây Ngài đã thiền định suốt 9 năm ngồi quay mặt vào vách đá, và cũng tại đấy Huệ Khả đến cầu đạo. Từ đó y bát dòng Thiền đã được truyền thừa cho năm vị Tổ kế thừa là Nhị tổ Huệ Khả, Tam tổ Tăng Xán, Tứ tổ Đạo Tín, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn và Lục tổ Huệ Năng. Đến thời Huệ Năng, đời nhà Đường, thì phái Thiền tông đã phát triển rộng rãi, đạt đến tuyệt đỉnh và rất được trân trọng ở Trung Hoa. Chính ngài là người đã vận dụng cả kinh điển Đại thừa, thiền định Ấn và Lão giáo để truyền dạy yếu lý của Phật pháp là đốn ngộ kiến tánh. Uy danh, đạo hạnh của Huệ Năng được sử sách đánh giá rất cao trong hàng chư tổ. Lời giảng của ngài ghi lại trong bộ "Pháp Bảo Đàn Kinh" được gọi là Kinh trong khi sách của chư tổ khác thì chỉ được gọi là Luận mà thôi.

Huệ Năng lập môn phái ở Tào Khê, phía nam nước Tàu nên được gọi là Nam tông, vì Thần Tú, một đệ tử cao tăng khác của Hoằng Nhẫn, nhưng lại không được chánh truyền y bát, vẫn ở lại núi Hoàng Mai lập phái Bắc tông, theo lối thật tu tiệm ngộ, nên đương thời có câu: "Nam đốn, Bắc tiệm". Phái Bắc tông về sau suy kém, trong khi phái Nam tông càng ngày càng hưng thịnh và dần dần lập thành 5 phái Thiền của Trung Hoa. Lục Tổ đã y theo lời dặn dò của Thầy là Hoằng Nhẫn: "Ngày xưa đức Đạt Ma mới đến xứ này, người ta chưa tin Phật pháp, nên phải truyền cái y và bát này để làm vật tin từ đời này sang đời khác. Còn Pháp thì lấy tâm chuyển tới; và từ xưa chư Phật chỉ trao kín cái bản tâm mà thôi. Y, bát này lại trở thành cái mối tranh chấp, vậy từ đời ngươi trở đi, không cần phải truyền y bát nữa, vì tông phái đã có truyền thống rõ rệt rồi..." mà không truyền thừa y bát lại cho đệ tử tín cẩn nữa.

Tác phong tu hành thời Huệ Năng đã bắt đầu bớt dần lối sinh hoạt thuần tĩnh tọa trầm tư của tăng già Ấn Độ, có lẽ một phần vì ảnh hưởng của môi sinh, khí hậu Trung quốc lạnh lẽo hơn, nên thêm vào phép tu lao tác (làm lụng bằng chân tay) để định tâm, nhưng vẫn chưa triển khai lối Thiền công án, thoại đầu hoặc át bổng (hét đánh) như về sau.

Chủ thuyết của Lục Tổ Huệ Năng được tóm gọn trong câu: "Giáo ngoại biệt truyền, Bất lập văn tự, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật" hoặc "Bất nhị pháp môn" cũng trở thành tôn chỉ của Thiền tông Trung Hoa.

Huệ Năng có hai đệ tử xuất sắc là Nam Nhạc Hoài Nhượng (Nanyue Huairang: 677- 744) và Thanh Nguyên Hành Tư (Quiyan Xingxi: 660- 740). Người kế vị Nam Nhạc là Mã Tổ Đạo Nhất (Mazu Daoyi: 707-786), kế đến là Bách Trượng Hoài Hải (Baizhang Huaihai: 749-814, lập phái Qui Ngưỡng chủ trương triệt để lao động chân tay theo qui tắc nghiêm ngặt), rồi đến Hoàng Bá Hy Vận (Huangbo Xiyun: ?- 850; mà những lời dạy của Ngài đã được đệ tử Bùi Hưu chép lại trong bộ Hoàng Bá Truyền Tâm Pháp Yếu rất danh tiếng), rồi đến Lâm Tế Nghĩa Huyền (Linji Yixuan: ?- 867; đã lập phái Lâm Tế trong thời gian Pháp nạn ở Trung quốc: 842- 845; và Ngài đã phát minh ra lối thiền công án, cùng phép át bổng mà truyền thống vẫn còn duy trì cho mãi đến ngày nay – xem BichNham Lục, Vô Môn Quan vv...) Giòng Thanh Nguyên Hành Tư về sau phát sinh ra 3 tông phái khác là Tào động, Vân môn, và Pháp nhãn. Hai phái Tào động và Lâm Tế đã được truyền sang Nhật ở thế kỷ 12 mang tên là Sodo và Rinzai.

Thiền tông cũng đã được truyền vào Việt Nam thời thuộc nhà Tùy, khoảng năm 580, do một vị Thiền sư Ấn độ tên là Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci:? - 594), vốn là đệ tử của Tam tổ Tăng Xán, vì nạn phá Phật ở Trung quốc đã vâng lời thầy đi hoằng hóa phương Nam, đến tỉnh Hà Bắc lập chùa Pháp Vân (chùa Dâu) và truyền thừa cho Pháp Hiền. Có thuyết cho rằng Tì Ni Đa Lưu Chi là tổ dòng Thiền ở Việt nam; nhưng lại có nơi cho rằng chính Khang Tăng Hội là người khai sáng. Tiếp theo, đến năm 820 đời Đường có Thiền sư Trung Hoa Vô Ngôn Thông (? – 826) môn đệ của Bách Trượng Hoài Hải, ngụ tại chùa Kiến Sơ, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Dòng Thiền này đã sản xuất ra những vị Thiền sư lỗi lạc như Khuông Việt, Thông Biện, Mãn Giác, Minh Không, Giác Hải vv... Rồi năm 1069 có Thiền sư Thảo Đường cũng vân tập phương nam hoằng dương chánh pháp.


Được sửa bởi HoaMinh ngày Tue Jul 03, 2012 10:26 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
HoaMinh
CẤP BẬC 1
CẤP BẬC 1
HoaMinh


cảm ơn { thanks } : 1
ngày tham gia : 09/06/2012
tuổi của bạn : 54
Đến từ : 73/28 - Lê Văn Viêt - Hiệp Phú - Q. 9 - TP.HCM

TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty
Bài gửiTiêu đề: TỊNH ĐỘ TÔNG   TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTue Jul 03, 2012 10:24 pm



TỊNH ĐỘ TÔNG

[You must be registered and logged in to see this image.]


Tịnh độ tông là tông phái chuyên tu tập để được về cõi Tịnh độ. Vậy cõi Tịnh độ là gì? Cõi đó ở đâu? Tịnh có nghĩa là thanh tịnh, còn độ là quốc độ. Tịnh độ là cõi mà ở đó chỉ có sự thanh tịnh, chúng sanh ở đó không bị phiền não. Tất cả các cõi của chư Phật đều là cõi tịnh độ, tuy nhiên tông phái này chọn pháp môn tu về cõi tịnh độ của Phật A Di Đà. Đức Phật Thích Ca có dạy rằng: Trong thời Chánh Pháp người ta thành tựu pháp thiền quán; trong thời tượng pháp, người ta thành tựu pháp thiền định và trong thời mạt pháp, người ta thành tựu pháp môn Tịnh Ðộ. Ngài Long Thọ viết bộ luận Đại Trí Độ, trong đoạn khai thị về pháp môn Tịnh độ có dạy: "Niệm Phật tam muội có thể trừ các thứ phiền não và những tội đời trước. Các pháp tam muội khác, có môn trừ được nghiệp dâm, không thể trừ được nghiệp sân, có môn trừ được nghiệp sân, không thể trừ nghiệp dâm. Có môn trừ được ba độc, tham, sân, si, không thể trừ các tội đời trước. Môn niệm Phật tam muội có thể trừ các thứ phiền não và các thứ tội chướng. Lại nữa, niệm Phật tam muội có phước đức lớn, hay độ chúng sanh. Chư Bồ-tát muốn mau diệt tội chướng, được nhiều phước đức, sớm độ chúng sanh, không chi hơn tu môn niệm Phật tam muội. Ngài dạy thêm: Nếu chưa vào Vô sanh nhẫn của Bồ-tát vị, chưa được thọ ký, chưa đến ngôi Bất Thối chuyển, mà xa lìa chư Phật, tất sẽ chìm trong biển phiền não, hư mất hết các căn lành! Như thế, đã không thể độ mình, làm sao độ chúng sanh được? Ví như, kẻ dùng chiếc thuyền không bền chắc để đưa người, khi gặp sóng to gió lớn, tất thuyền sẽ bị hư rã, mình và người đều chết đắm. Lại như người đem ấm nước sôi đổ vào ao băng tuyết, muốn cho ao băng tuyết tiêu tan, ban sơ chỉ tan được chút ít , kết cuộc chính nước sôi ấy sẽ trở thành băng tuyết. Bồ-tát chưa vào Vô sanh pháp vị mà xa lìa chư Phật cũng lại như thế! Nếu Bồ-tát chưa đủ nhẫn lực, chưa đủ phương tiện, muốn dùng chút ít công đức để ra hóa độ chúng sanh, sự lợi ích tuy có đôi phần, nhưng trái lại chính mình sẽ bị đọa lạc. Dưới đây là câu chuyện minh chứng cho điều trên:

Có ba vị Bồ Tát là Vô Trước, Thế Thân, Sư Tử Giác thâm tu thiền định quyết chí đồng sanh về Đâu Suất. Ba vị đó cùng ước hẹn, nếu ai sanh lên Nội Viện được thấy Đức Di Lặc trước, phải trở về báo tin cho huynh đệ biết. Ngài Sư Tử Giác quy tịch trước, trải qua thời gian khá lâu, không trở lại báo tin. Kế đó ngài Thế Thân vô thường; khi lâm chung, Vô Trước Bồ Tát dặn rằng: 'Sau khi em bái kiến Đức Di Lặc, phải trở xuống cho anh biết ngay.' Thế Thân Bồ Tát tịch rồi ba năm sau mới trở lại báo tin. Ngài Vô Trước hỏi: 'Tại sao em thông báo trể như thế?' Thế Thân đáp: 'Sau khi lễ kiến Đức Di Lặc, vừa nghe Ngài thuyết pháp chỉ dạy xong, em cung kính đi vi nhiễu ba vòng rồi trở xuống đây báo tin liền. Vì một ngày đêm ở Đâu Suất bằng 400 năm nơi hạ giới, nên mới trể đến ba năm.' Vô Trước lại hỏi: 'Còn Sư Tử Giác hiện ở đâu?' Thế Thân đáp: 'Sư Tử Giác bị lạc vào Đâu Suất ngoại viện, đang say đắm cảnh ngũ dục, từ khi sanh lên đến nay, chưa được thấy Đức Di Lặc.

Duyên Khởi Lập Tông

Tịnh độ căn cứ vào những kinh điển gì để thành lập? Kinh điển mà Tịnh độ tông đã y cứ thì rất nhiều. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu lên một ít bộ kinh căn bản, thường được nói đến thôi. Ðó là các bộ:

1.-Kinh vô lượng thọ: Kinh này được chép lại 48 lời thệ nguyện của đức A-Di-Ðà , khi còn là một vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng. Nội dung của 48 lời thệ nguyện ấy là: sau khi thành Phật, ngài sẽ lập ra một quốc độ hết sức trang nghiêm thanh tịnh, để tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương Thế giới về đó, nếu những chúng sanh ấy thường niệm đến danh hiệu Ngài và thường cầu được vãng sanh về cõi tịnh độ của Ngài.

2.- Kinh Quán Vô lượng thọ: Kinh này chép rõ 16 Pháp quán và 9 Phẩm, để dạy người cầu được vãng sanh về cõi Tịnh độ.

3.- Kinh tiểu bổn A-Di-Dà: Kinh này lược tả cõi tiên giới Cực Lạc, trang nghiêm (Tịnh độ) khiến người sanh lòng ham mộ, phát nguyện tu theo pháp môn ''trì danh niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn'' để được vãng sanh về cõi ấy.

Ba kinh trên này là ba bộ kinh chính; cổ nhân thường gọi là '' ba kinh Tịnh độ''. Ngoài ra còn có các kinh khác như:

Kinh Bửu tích chép việc đức Phật vì vua Tịnh phạn và bảy vạn người trong thân tộc, nói pháp môn ''trì danh niệm Phật'' để cầu sanh về Thế giới Cực lạc.

Kinh đại bổn A-Di-Dà, Kinh Thập lục quán, kinh Ban châu niệm Phật, kinh Bi-Hoa, kinh Phương Ðẳng, kinh Hoa nghiêm.v.v..

Giáo điển về Tịnh độ truyền qua Trung Hoa rất sớm, nhưng đến đời Ðông Tấn nhờ Ngài Huệ-viễn đại sư ra công hoằng hóa, nên tôn này mới bắt đầu thịnh hành. Ngài là vị tổ đầu tiên ở Trung Hoa. Sau đó, các vị đạo sư danh tiếng như Ngài Ðàm loan, ngài Ðạo Xước, ngài Thiện-đạo.v.v.. đều dùng pháp môn này mà tu chứng và hóa độ rất nhiều người và mãi lưu truyền cho đến ngày nay.

Bốn Cõi Tịnh Ðộ

Tịnh độ không phải chỉ có một cõi, mà rất nhiều cõi. Ðứng về phương diện phân tích, từ tế đến thô, có thể chia làm 4 cõi Tịnh độ sau đây:

1. Thường tịch quang Tịnh độ: Đây là cảnh giới mà Pháp thân Phật an trụ. ''Thường'' là không thay đổi, không sanh diệt, tức là Pháp thân Phật; ''Tịch'' là xa lìa các phiền não vọng nhiễm, tức là đức Giải thoát của Phật; ''Quang'' là chiếu sáng khắp cả mười phương, tức là đức Bát-nhã của Phật. Như thế là cõi Tịnh độ này đủ cả ba đức quý báu của Phật là Thường, Tịch và Quang, cho nên gọi là ''Thường tịch quang Tịnh độ''.

Cảnh Tịnh độ này không có hình sắc mà chỉ là chơn tâm. Vì bản thể chơn tâm, hay tánh viên giác ''thường vắng lặng, chiếu soi và thanh tịnh'', nên gọi là ''Thường tịnh quang Tịnh độ''. Chư Phật khi đã chứng được cảnh giới này rồi thì Thân và độ không hai, song vì căn cứ theo ba loại Tịnh độ sau đây mà gọi là có Thân, có Ðộ. Chứng đến chỗ này, nếu đứng về Thân thì gọi là ''Pháp Thân'', còn về độ, thì gọi là ''Thường tịch quang Tịnh độ''.

Kinh Tịnh danh, về lời sớ có chép: Tu nhơn hạnh về viên giáo, khi nhơn viên quả mãn, thành bực Diệu giác (Phật) sẽ ở cõi ''Thường tịch quang Tịnh độ''.

2. Thất báo trang nghiêm Tịnh độ: Hành giả trải qua ba số kiếp tích công lũy đức do phước báu tu hành nhiều đời dồn chứa lại, làm trang nghiêm cảnh giới chơn thật nên gọi là ''Thật-báo trang nghiêm Tịnh độ''. Cảnh giới Tịnh độ này là chỗ ở của Báo thân Phật. Kinh Quán vô lượng thọ về lời sớ có chép: ''Tu tập chơn thật'', cảm đặng quả báo tốt đẹp, cho nên gọi là ''Thật báo trang nghiêm''. Bên Ðại thừa Viên giáo thì cõi này là của các bậc Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng); còn bên ngoài Ðại thừa Biệt giáo, thì đây là cõi các bậc từ Thập địa cho đến Ðẳng giác Bồ Tát.

3. Phương tiện hữu dư Tịnh độ: Cảnh Tịnh độ này không phải là cứu cánh rốt ráo, mà chỉ là phương tiện. Ðây là cõi Tịnh độ của hàng Nhị thừa. Các vị này tuy đã dứt được kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới ), nhưng còn dư lại hai hoặc là: vô minh hoặc và trần sa hoặc, chưa trừ được, nên gọi là ''hữu dư ''. Ðã là ''hữu dư '' tức là chưa phải hoàn toàn cứu cánh, nên gọi cõi Tịnh độ này là '' Phương tiện hữu dư Tịnh độ ''.

4. Phàm thánh đồng cư Tịnh độ: Ðây tức là cõi Tịnh độ của Ðức Phật A-di-đà ở Tây-phương. Ðã gọi là Tịnh độ, hay Cực-lạc, tuy nhiên có đủ các đức thanh tịnh trang-nghiêm, không có bốn ác thú. Nhưng đây vì Phật, Bồ Tát và các vị thượng thiện nhơn (thánh) cùng sống chung với chúng sanh mới vãng sanh, chưa chứng được quả thánh (phàm) nên gọi là ''Phàm thánh đồng cư Tịnh độ ''.

Vì phần đông tín đồ Phật Giáo Việt Nam và Trung Hoa trong khi tu về pháp môn Tịnh độ, đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ này, tức là cõi Cực lạc của Phật A Di Ðà, nên ở đây, chúng tôi xin căn cứ theo kinh ''Tiểu bổn A-Di-Ðà'' thuật lại lời Ðức Phật Thích Ca đã tả về cảnh giới của cõi Tịnh độ này: ''...Từ cõi Ta-bà này, cứ về hướng Tây, cách đây hơn mười muôn cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc. Vị Giáo-chủ ở Thế giới ấy là Phật A Di Đà, thường hay nói pháp. Cõi ấy có 7 lớp câu-lơn (tường-hoa) bảy lớp lưới giăng, bảy hàng cây xinh đẹp, có hồ thất bảo đầy nước tám công đức. Ðáy hồ toàn là cát vàng. Bốn phía bờ hồ đều cẩn vàng ngọc, châu báu. Trong hồ có hoa sen bốn màu lớn bằng bánh xe, hương thơm ngào ngạt, màu nào cũng có hào quang chiếu sáng. Quanh hồ, vươn lên những tòa lâu đài nguy nga, xinh đẹp làm toàn bằng thất bảo.

Trên không trung hòa lẫn những bản nhạc thiêng, có những tiếng chim báu, do Phật họa hiện ra, để thuyết pháp luôn trong sáu thời cho dân chúng nghe. Người nghe rồi liền phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Không những chỉ có tiếng chim, mà cho đến tiếng nước chảy, gió thổi, cây reo, cũng đều phát ra tiếng phát nhiệm mầu.

Cảnh giới Cực Lạc tốt đẹp, trang nghiêm như thế là do công đức của Phật A Di Dà là vị giáo chủ của cõi ấy và các vị Bồ tát, Thánh chúng chung nhau tạo thành. Chữ A Di Dà người Trung Hoa dịch là ''Vô lượng thọ'', hay ''Vô lượng quang'', nghĩa là đức Phật này sống lâu không lường và hào quang chiếu sáng cũng không lường.

Ba món tư lương để cầu sanh Tịnh Ðộ

Muốn được vãng sanh, về cõi Tịnh độ nói trên, hành giả phải chuẩn bị ba yếu tố sau đây là: Tín, Nguyện và Hành. Ba yếu tố này thường được gọi là ba món tư luơng (Lương phạn đi đường). Nếu thiếu một món ăn nào, hành giả cũng không thể tu hành có kết quả được.

1. Thế nào là ''Tín'': Tín là đức tin vững chắc, không gì lay chuyển được. Ðức tin rất quan trọng và cần thiết cho người tu hành. Kinh Hoa-Nghiêm có dạy: '' Tin là mẹ sanh ra các công đức ''. Nhờ đức tin mà quả Bồ đề có thể thành tựu được.

Tin có ba phần:

a) Tin Phật: Tin rằng Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, biết các việc sáng suốt, biết các việc quá khứ, hiện tại và vị lai, thấy hết thảy hằng sa thế giới, hiểu biết các pháp một cách rõ ràng. Tin rằng do lòng từ bi muốn cứu khổ sanh-tử luân hồi cho chúng sanh, mà Phật Thích Ca nói pháp môn niệm Phật, để chúng sanh thực hành theo người mà được vãng-sanh về Tịnh độ. Tin rằng lời dạy của Ðức Phật Thích Ca không hư đối, Ðức-Phật A-Di-Ðà và cảnh Tịnh độ đều có thật.

b) Tin Pháp: Tin rằng pháp môn niệm Phật là pháp môn dễ tu, dễ chứng, có bảo đảm chắc chắn. Tin rằng 48 lời thệ nguyện của Phật A Di Ðà có đầy đủ hiệu lực để cứu độ chúng sanh, và nếu ta thực hành đúng theo pháp môn này, chắc chắn sẽ được vãng sanh về cõi Tịnh độ của Phật A Di Ðà.

c) Tin mình: Tin rằng mình có đầy đủ khả năng và nghị lực để tu theo phápmôn này. Tin rằng nếu mình thực hành đúng như lời Phật Thích-Ca đã chỉ dạy trong kinh A Di Ðà, chuyên trì danh hiệu Phật A Di Ðà cho đến ''nhất tâm bất loạn'' thì khi lâm chung chắc chắn thế nào mình cũng sẽ được sanh về cõi Tịnh độ.

2. Thế nào là ''nguyện'': Nguyện là lời hứa hẹn, sự ước ao, là chí nguyện, mong muốn thực hiện những điều chân chính. Nguyện là sức hút của đá nam châm, là cánh buồm căng gió của chiếc thuyền, là cái chong chóng của máy bay. Nguyện là động cơ thúc đẩy cho con người tu hành mau đến mục đích.

Nguyện quan trọng như thế, nên hành giả phải lập nguyện cho vững bền, luôn luôn kiên tâm, trì chí tu theo pháp môn niệm Phật này, ngày đêm chuyên niệm Phật không ngớt, thiết tha mong cầu được sanh về cõi Tịnh độ của Phật A Di Ðà.

Ðể có một ý niệm về chữ ''nguyện '', chúng tôi xin trích ra sau đây ba lời nguyện, trong 48 lời nguyện của Phật A Di Ðà, khi còn làm Pháp tạng Tỳ Kheo:

- ''Sau khi ta thành Phật, chúng sanh ở mười phương một lòng tin ưa, muốn về cõi ta, từ một niệm cho đến mười niệm, nếu chúng sanh ấy không đặng vãng-sanh, thì ta thề không thành bậc Chánh-Giác, chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch và chê bai Chánh pháp ''.

- ''Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương pháp giới, phát tâm Bồ-Ðề, tu các công đức, một lòng phát nguyện, muốn sanh về cõi nước ta, giả như ta không cùng với đại chúng hiện ra ở trước mắt chúng sanh ấy, thời ta thề không thành bậc Chánh-giác ''.

- ''Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu ta, chuyên niệm cõi nước ta, mà nếu không được thỏa nguyện, thì ta thề không thành bậc Chánh-Giác ''.

3. Thế nào là ''Hành'': Hành là thực hành, làm theo. Nếu tin (tín) mà không ước ao, mong muốn (nguyện) thì chỉ là tin suông, vô bổ. Nhưng nếu ước ao, mong muốn (nguyện) mà không làm (hành) thì chỉ ước ao, mong muốn hảo huyền, không đi đến kết quả gì. Bởi thế, Tín, Nguyện,Hành ba yếu tố căn bản này bao giờ củng phải có đủ, mới đủ điều kiện vãng sanh Tịnh độ. Cũng như cái đảnh, phải có đủ ba chân mới đúng vững được, thiếu một chân, tất phải ngã.

Phương Pháp Tu Về Tịnh Ðộ

Sau khi đã chuẩn bị đủ ba yếu tố hay ba món tư lương Tịnh độ nói trên, chúng ta phải hạ thủ công phu ngay. Nhưng muốn cho có hiệu quả, chúng ta cần hiểu rõ phương pháp tu hành. Vẫn biết rằng pháp môn niệm Phật là một pháp môn rất giãn dị, chỉ cần niệm Phật là đủ. Nhưng niệm Phật cũng có nhiều cách, nhiều loại. Chúng tôi xin dẫn một vài phương phát sau đây:

1. Trì-danh niệm Phật: Trong lối niệm Phật này, hành giả chỉ chuyên tâm trì niệm danh hiệu của Phật A Di Ðà. Mỗi ngày từ khi mới thức dậy cho đến lúc đi ngủ, hành giả phải nhớ niệm luôn, không cho xen hở. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ăn, trước khi ngủ, hành giả đừng bao giờ quên niệm Phật. Ngoài ra muốn có hiệu quả hơn, hành-giả cần phải thêm phương pháp '' Kinh hành niệm Phật '' (xem nghi thức kinh hành niệm Phật). Mỗi khi niệm xong, hành giả đều hồi hướng cầu sanh Tịnh độ.

2. Tham-cứu niệm Phật: Trong lối tu này, hành-giả phải tham khảo cứu-xét suy nghiệm câu niệm Phật. Như khi niệm '' Nam-mô A-Di-Ðà Ðà Phật '', hành-giả phải quán-sát câu niệm Phật này, từ đâu mà đến, đến rồi sẽ đi về đâu? Niệm đây là niệm ai v.v..? Nhờ sự chuyên tâmchú ý tham khảo một câu niệm Phật như thế, nên sóng vọng tưởng dần dần chìm lặng, nước thiện tâm hiện bày, hành-giả được ''nhất tâm bất loạn '', đến khi lâm chung, sẽ được sanh về cảnh giới của Phật. Pháp niệm Phật này giống như pháp tham cứu câu '' thoại đầu '' bên Thiền-tôn, nên gọi là '' tham-cứu niệm Phật ''.

3. Quán tượng niệm Phật: Trong lối tu này, hành-giả chăm chú quan sát hình tượng của Phật.

Hành giả ngồi trước tượng Phật, chú tâm chiêm ngưỡng, quan sát các tướng tốt mà liên tưởng các đức tính của Phật. Như khi chiêm ngưỡng đôi mắt Phật, thì liên tưởng tới trí huệ của Phật; khi chiêm ngưỡng nụ cười hiền hòa của Phật, thì liên tưởng đến đức tánh từ bi, hỷ xả của Phật. Nhờ quán trí huệ của Phật mà tánh Si của hành giả phai dần; nhờ quán từ bi của Phật mà tánh Sân của hành-giả bớt dần ...Hễ quán thêm một đức-tánh tốt của Phật, thì một tánh xấu của hành giả được bớt đi. Tánh của Ðức Phật như tia sáng mặt trời, tánh xấu của hành giả như vết mực; tia sáng mặt trời càng sáng nhiều và càng chiếu rọi lâu ngày, thì vết mực càng phai nhanh. Tóm lại, nhờ sự chú tâm quán các tướng tốt trên hình tượng của Phật, mà các đức tánh như từ bi, hỷ xả, bình đẳng, lợi tha được huân tập, thấm nhuần vào tâm hành giả; lâu ngày, tâm hành giả sẽ thanh tịch, lọc sạch những niệm ác độc và sẽ giống tâm Phật, được vãng sanh về cõi Phật.

4. Quán tưởng niệm Phật: Trong lối tu này, hành-giả ngồi yên một chỗ, mặc dù không có hình tượng Phật trước mặt, mà hành giả quán tưởng như có Ðức-Phật A Di Ðà, cao lớn đứng trên hoa sen, phóng tỏa hào quang như tấm lụa vàng, bao phủ cả thân hình mình. Hành giả ngồi ngay thẳng, hai tay chắp lại, cũng tưởng mình ngồi trên tòa-sen, được Phật tiếp dẫn. Hành giả chuyên chú quán tưởng mãi mãi như thế; đi, đứng, nằm, ngồi cũng không dừng nghĩ, cho đến khi nào, mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy Phật, tức là pháp quán đã thuần thục. Khi lâm chung, hành giả chắc chắn sẽ được vãng sanh về Tịnh độ.

Trong kinh Quán Phật tam muội chép rằng: 'Phật vì Phụ vương, nói pháp quán-tưởng bạch hào ...''. Quán-tưởng bạch-hào nghĩa là quán-tưởng lông trắng có hào quang sáng chiếu, giữa hai chân mày của Phật, như trăng thu tròn đầy, trong suốt như ngọc lưu ly. Ðây là một phương pháp quán tưởng niệm Phật.

5. Thật tướng niệm Phật: Thật tướng niệm Phật là niệm Phật đã đạt đến bản thể chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt, không khứ lai, không hư không giả, cho nên gọi là "thật tướng ".

Trong năm pháp niệm Phật trên này, thì bốn pháp trước đều thuộc về sự, có niệm có tu; còn pháp thứ năm (thật tướng niệm Phật) là thuộc về lý: không còn niệm còn tu, không còn năng sở, cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến chỗ này mới hoàn toàn rốt ráo.

Nhưng, hành giả phải luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự , Lý mới hiển. Trước hết phải tu bốn pháp niệm trên, cho đến khi thuần thục, không còn thấy có mình là người niệm, Phật là vị bị niệm, chỉ có một tâm yên lặng chiếu soi, không năng sở, bi thử, không hữu, không vô. Ðến chỗ này, kinh Di Ðà gọi là "được nhất tâm bất loạn". Kinh Tứ thập nhi chương chép; "niệm đến chỗ vô niệm, mới là chơn niệm".

Trong năm pháp niệm Phật trên đây, từ xưa đến nay, người tu Tịnh độ, thường lựa pháp môn danh trì, là một pháp môn dễ hạ thủ công phu, hành giả ở trình độ nào, chỗ nơi nào hay lúc nào, cũng đều có thể tu được. Thật là một pháp môn rất thù thắng.
[img][/img]
Về Đầu Trang Go down
HoaMinh
CẤP BẬC 1
CẤP BẬC 1
HoaMinh


cảm ơn { thanks } : 1
ngày tham gia : 09/06/2012
tuổi của bạn : 54
Đến từ : 73/28 - Lê Văn Viêt - Hiệp Phú - Q. 9 - TP.HCM

TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO   TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO EmptyTue Jul 03, 2012 10:29 pm



MẬT TÔNG



Mật tông là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bí mật bắt nguồn từ Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 5, 6 tại Ấn Độ. Có một số ý kiến cho rằng có sự đồng nhất giữa tên gọi Mật Tông với Kim cương thừa (Vajrayāna). Tuy nhiên, tên gọi Kim Cương Thừa chỉ thấy xuất phát từ Tây Tạng, còn các nguồn kinh điển Hán tạng xưa không đề cập đến tên gọi này. Vấn đề này có thể thấy rõ qua nét khác biệt của hai đường lối tu giữa hai trường phái. Mật Tông xuất phát từ Trung Quốc sử dụng sự kết hợp giáo nghĩa của cả hai Kim Cương Giới và Thai Tạng Giới, trong khi đó Mật Tông Tây Tạng hiếm khi đề cập đến Thai Tạng Giới và Kinh Đại Nhật.

Mật Tông du nhập vào Trung Quốc vào khoảng thế kỷ thứ 7 và thịnh hành vào thế kỷ thứ 8 với sự xuất hện của ba vị Cao tăng Ấn Độ sang truyền pháp là Thiện Vô Uý ( 637-735), Kim Cương Trí ( 663-723) và Bất Không Kim Cương (705-774). Ba ngài được tôn vinh là Khai Nguyên Tam Đại Sĩ. Thiện Vô Uý, được phong Quốc sư, là người dịch Đại Nhật kinh (sa. mahāvairocana-sūtra), kinh căn bản của tông này, ra chữ Hán với sự hỗ trợ của Sư Nhất Hạnh. Dòng truyền thừa vào Trung Quốc xuất phát từ trung tâm Phật học Na Lan Đà. Cả 3 Ngài: Kim Cang Trí, Thiện Vô Úy và Bất Không từng được Sư Long Trí (là đệ của Ngài Long Thọ) truyền pháp.

Pháp môn này truyền vào Tây Tạng muộn hơn Trung Quốc, vào khoảng cuối thế kỷ thứ 8 bởi Đại Sư Liên Hoa Sinh và tại đây Kim cương thừa đã hòa nhập với Phật giáo Đại thừa sẵn có của Tây Tạng và được gọi là Lạt Ma giáo. Ở Tây Tạng, đệ tử chỉ được thu nhận vào Mật tông thông qua một nghi lễ khai ngộ (initiation) đặc biệt được tiến hành bởi một lạt ma có tên tuổi. Mật tông cũng chủ trương sự tự giác ngộ thông qua việc thiền định (meditation) và niệm chân ngôn (mantra). Dòng truyền thừa vào Tây Tạng xuất phát từ trung tâm Phật học Vikramasila.

Mật tông du nhập vào Nhật Bản vào khoảng cuối thế kỷ thứ 8 đầu thế kỷ thứ 9 bởi Hoằng Pháp Đại Sư Không Hải. Sư đã đi sang Trung Quốc tầm sư học đạo và làm môn đệ của Đại sư Huệ Quả, một môn đệ của Bất Không. Sau khi về nước và lập ra trường phái Chân ngôn tông (ja. shingon-shū) rất hưng thịnh và là một trong những tông phái quan trọng của nền Phật giáo Nhật Bản.

Các yếu tố quan trọng của Mật tông là phép niệm chân ngôn (thần chú), phép bắt ấn (sa. mudrā) và sử dụng Mạn-đà-la cũng như các lần Quán đỉnh. Mật tông là giáo pháp mà sư phụ truyền cho học trò bằng lời (khẩu quyết) và đó là lí do mà Mật tông không được truyền bá rộng rãi. Mật Tông tại Trung Quốc rất thịnh hành vào đời Đường, nhưng dần dần thoái trào và về sau này thì tuởng như suy vi hẳn. Thật ra, sau này do nhiều pháp sư lạm dụng sự huyền bí của chơn ngôn nên mật tông dần co cụm lại và truyền thụ cho những nguời có duyên với pháp môn này.

Tại Việt Nam, hiện có khá nhiều đạo tràng tu tập thiền tông khế hợp với mật tông. Có nhiều tác giả dịch thuật những bài kinh thuộc tạng kinh mật giáo như Thích Thiền Tâm, Thích Viên Đức, Thiền sư Nhẫn Tế v.v., ngoài ra còn có những vị tu theo mật pháp như Tịnh Danh Pháp Chủ, Nhật Quang, Phương Nghi Huyền Thạch công, Kim Cang Sư Thích Minh Đức v.v. Những tự viện từng theo pháp tu mật tông như chùa Tây Tạng (Bình Dương), Tịnh viện Hải Triều Âm (Đại Ninh)...

Thần chú: Chú là âm thanh, thần (thần thông) là năng lực thông suốt và giao tiếp giữa các cảnh giới tâm linh khác nhau. Như vậy Thần chú là các âm thanh có khả năng giao tiếp với các cảnh giới tâm linh (tinh túy hơn cảnh giới vật chất).

Thông thường có 2 loại thần chú: - Thần chú có thể tụng niệm không cần sự cho phép, ví dụ âm AUM, là âm tiết thần chú gốc được nhiều tôn giáo tin dùng, nó được coi là âm thiêng từ cõi Phạm Thiên truyền xuống. Câu thần chú OM Ma ni Peme Hum (Án Mai Ni bát Di Hồng) được coi là câu thần chú phổ thông được đức Quán Thế Âm truyền cho nhân gian, chủ yếu về khai mở lòng từ bi và nhiều đức tính liên quan tới đức Quán Thế Âm. Trong mật tông, việc tụng niệm Thần chú (Mantra) là một trong 3 cách thức tác động tới thân khẩu ý của một hành giả.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO   TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Empty

Về Đầu Trang Go down
 
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
ĐẠO CỦA TÔI  :: ********ÁNH SÁNG PHẬT PHÁP******* :: NƠI HỎI ĐÁP THẤT MẤT VỀ GIÁO LÝ, PHẬT PHÁP-
Chuyển đến